Xin chào ! Nếu đây là lần đầu tiên bạn đến với diễn đàn, xin vui lòng danh ra một phút bấm vào đây để đăng kí và tham gia thảo luận cùng VnPro.

Announcement

Collapse
No announcement yet.

Quy trình làm việc với Data Center được ảo hóa

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Quy trình làm việc với Data Center được ảo hóa

    Quy trình làm việc với Data Center được ảo hóa

    Đến phần này, ta đã biết được các thông tin cơ bản và quan trọng để chuẩn bị thảo luận về điện toán đám mây. Server ảo hóa là một bước cải tiến lớn trong vận hành của các trung tâm dữ liệu, nhưng chỉ riêng ảo hóa không thể tạo ra một môi trường điện toán đám mây. Hãy tiếp tục bàn về các công nghệ nền tảng trước khi ta có thể nói về cloud computing, như là quy trình làm việc với một data center được ảo hóa.
    Một số nhân viên IT, ta gọi họ là kĩ sư server, kĩ sư ảo hóa hoặc quản trị viên, mua và lắp đặt các host (server) mới. Họ thu thập các yêu cầu, kế hoạch về công suất cần thiết, tìm kiếm phần cứng, mua nó và lắp đặt nó. Ngày trước, họ chỉ quản lý các server và thực hiện công việc của một kĩ sư IT, nhưng bây giờ họ có thể làm việc với cả các công cụ ảo hóa.
    Các kĩ sư ảo hóa cũng cài đặt và tùy chỉnh công cụ ảo hóa. Ngoài các trình ảo hóa trên mỗi server, nhiều công cụ khác rất hữu ích khác trong việc quản lý và kiểm soát trung tâm dữ liệu ảo hóa. Chẳng hạn, một công cụ có thể cho các kĩ sư có cái nhìn toàn cảnh về trung tâm dữ liệu, với tất cả các máy ảo đang chạy ở đó, hiển thị lên các khả năng của server có thể cung cấp để chạy các VM. Theo thời gian, kĩ sư server / ảo hóa thêm các server vật lý mới đến trung tâm dữ liệu, sau đó cấu hình hệ thống ảo hóa để sử dụng và đảm bảo nó có thể hoạt động.
    Bây giờ, một khách hàng cần một “server”. Thực tế, khách hàng muốn có một VM (hoặc nhiều) với các yêu cầu: số lượng vCPUs cụ thể, dung lượng RAM, v.v. Khách hàng sẽ gửi yêu cầu cho kĩ sư ảo hóa/kĩ sư server để thiết lập các VM, như trong Hình 1.

    Click image for larger version

Name:	image.png
Views:	18
Size:	30.1 KB
ID:	429165
    Hình 1: Quy trình truyền thống: Khách hàng gửi yêu cầu cho các kĩ sư IT để yêu cầu một dịch vụ.

    Mô hình chỉ ra những gì xảy ra sau khi người dùng đưa ra yêu cầu mà có thể được giải thích như sau:
    · B1: Người dùng thuộc 1 nhóm IT, như là 1 developer hoặc 1 thành viên trong nhóm nhân viên vận hành, muốn sử dụng dịch vụ như là thiết lập một VM mới.
    · B2: Các kĩ sư về phần ảo hóa/ server sẽ phản hồi với các yêu cầu của người dùng. Các kĩ sư về phần ảo hóa/ server sẽ dùng giao diện, hoặc nếu số lượng của VM nhiều, thì thường cho chạy chương trình gọi là “script” để tạo các VM một cách tối ưu nhất.
    · B3: Bất kì khi nào các kĩ sư về phần ảo hóa nhấp chuột vào hoặc sử dụng “script”, phần mềm ảo hóa có thể tạo ra số lượng lớn các VM mới và khởi động chúng ở một số host bên trong data center.
    Quy trình được chỉ ra ở hình 1 hoạt động tốt. Tuy nhiên, cách tiếp cận để cung cấp dịch vụ như thế đã làm phá vỡ một số tiêu chuẩn cơ bản của dịch vụ đám mây. Ví dụ, điện toán đám mây yêu cầu khả năng tự vận hành. Theo quy trình ở trên, nếu được xem như là dịch vụ đám mây, quá trình ở bước 2 không nên đòi hỏi con người để thực hiện các yêu cầu, thay vào đó các yêu cầu nên được thực hiện một cách tự động. Muốn có thêm các VM trong hạ tầng đám mây? Nhấp chuột vào giao diện và yêu cầu tạo thêm VM mới, đi lấy một cốc cà phê, VM của bạn sẽ được thiết lập và khởi động theo yêu cầu của bạn trong vòng vài phút.
    Tóm tắt lại một vài điểm quan trọng về data center được ảo hóa sẽ dẫn ta đến khái niệm điện toán đám mây:
    · Hệ điều hành tách rời với hệ phần cứng mà nó chạy trên đó, vì thế một VM có thể chạy trên bất kì server ở trong data center chỉ cần có đủ tài nguyên để chạy.
    · Các phần mềm ảo hóa có thể khởi động một cách tự động và di chuyển VM giữa các server với nhau trong data center
    · Mạng bao gồm luôn cả các Switch ảo và các Card mạng ảo bên trong mỗi host ( server)
    · Mạng có thể được lập trình bởi các phần mềm ảo hóa, cho phép các VM mới được cấu hình, khởi động, di chuyển khi cần thiết và tạm dừng với các thông số networking được cấu hình một cách tự động.

    Dịch vụ điện toán đám mây

    Điện toán đám mây giúp cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin. Điện toán đám mây tận dụng các sản phẩm như là ảo hoá cùng với các sản phẩm được xây dựng riêng cho các tính năng đám mây. Tuy nhiên, điện toán đám mây không phải là một bộ các sản phẩm sẽ được triển khai; thay vào đó, nó là một cách để cung cấp các dịch vụ công nghệ thông tin. Vì vậy, để hiểu được điện toán đám mây là gì không phải là một công việc dễ; phần tiếp theo sẽ giới thiệu những điều cơ bản giúp bạn hiểu về nó.
    Click image for larger version

Name:	image.png
Views:	21
Size:	29.7 KB
ID:	429166
    Hình 2: Một số đặc trưng của mô hình Cloud Computing Service

    Từ bài viết trước về ảo hóa, bạn đã biết một đặc điểm của dịch vụ đám mây: có khả năng tự động hóa để cung cấp dịch vụ cho người dùng. Nghĩa là, khách hàng có thể yêu cầu một dịch vụ và dịch vụ đó sẽ tự triển khai mà không phải chờ đợi con người có thời gian để làm việc với nó, xem xét yêu cầu, thực hiện công việc, v.v.
    Để hiểu rõ hơn dịch vụ điện toán đám mây, hãy xem danh sách 5 tiêu chí sau. Danh sách này được lấy từ định nghĩa của điện toán đám mây được đưa ra bởi Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ (NIST):
    Click image for larger version

Name:	image.png
Views:	11
Size:	29.4 KB
ID:	429168
    Hình 3: Danh sách 5 tiêu chí sau về dịch vụ điện toán đám mây

    On-demand self-service (tự phục vụ theo nhu cầu): Khách hàng có thể bắt đầu hoặc ngưng sử dụng dịch vụ theo nhu cầu mà không cần phải có sự can thiệp từ phía nhà cung cấp dịch vụ.
    Broad network access (truy cập diện rộng): Người dùng có thể truy cập dịch vụ cloud từ bất kỳ thiết bị nào và qua nhiều loại mạng (bao gồm Internet).
    Resource pooling (mạng lưới tài nguyên): Nhà cung cấp tạo một mạng lưới tài nguyên dùng chung (thay vì dành riêng một vài server cho một vài người dùng) và cung cấp tài nguyên một cách linh hoạt trong mạng lưới đó tùy theo nhu cầu của mỗi người dùng.
    Rapid elasticity (tính đàn hồi nhanh chóng): Đối với người dùng, mạng lưới tài nguyên như là vô tận (bởi vì nó liên tục mở rộng ra), và yêu cầu cho dịch vụ mới càng ngày càng nhiều.
    Measure service (dịch vụ đo lường): Nhà cung cấp có thể theo dõi mức độ sử dụng và báo người dùng để minh bạch và tính toán hoá đơn.
    Hãy giữ 5 tiêu chí này trong đầu khi bạn đọc qua phần còn lại bài viết. Để tiếp tục làm rõ các định nghĩa này, những trang tiếp theo đi vào hai loại điện toán đám mây đó là: Private Cloud và Public Cloud.​
    Attached Files
Working...
X