Nếu 2 LSR thấy được nhau qua thông điệp LDP Hello, chúng sẽ thiết lập phiên giao dịch với nhau. LSR mở phiên trên nền kết nối TCP port 646 với nhau. Nếu kết nối TCP đã có thì các LSR thương lượng thông số phiên bằng việc trao đổi bản tin LDP Initiazation (khởi tạo), gồm những thông số như:
• Giá trị định thời
• Phương thức phân phối nhãn
• Thông số DLCI cho LC-Frame Relay
Sau khi thỏa thuận xong thông số phiên, 2 LSR sẽ giữ kết nối TCP, nếu chưa thỏa thuận được chúng sẽ cố gắng tạo một phiên LDP khác nhưng ở mức thấp.
Sau khi phiên LDP đã được thiết lập, nó sẽ được duy trì gói tin LDP nhận hay thông điệp keepalive định kì. Mỗi lần 1 LDP nhận gói tin LDP hoăc thông điệp keepalive, thì bộ định kì keepalive được reset cho LDP đấy. Bộ định thời keepalive và thời gian Hold time cho một phiên LDP có thể được cấu hình bằng câu lệnh “mpls ldp holdtime seconds” với giá trị mặc định của Hold time là 180 giây, có thể chỉnh từ 15 đến 2.147.483 giây.
Ví dụ để hiện một điểm LDP với giá trị LDP IP là 10.200.254.2.
Như hình vẽ ta thấy: port TCP của chính LDP đó là 646, còn port của LDP đầu xà là 11537. Thời gian Hold time của session là 180 giây và thông điệp keepalive (KA) gửi định kỳ 60 giây 1 lần. Ngoài ra có thể thấy thời gian của phiên LDP
Phiên LDP là một kết nối TCP được tạo ra bởi 2 địa chỉ IP của các LSR. Thông thường những địa chỉ IP này được sự dụng để tạo LDP IP cho mỗi router. Tuy nhiên nếu không muốn sử dụng địa chỉ IP này để tạo phiên có thể thay đổi nó bằng câu lệnh “mpls ldp discovery transport-address ip-address trên cổng của router để chỉ định 1 cổng hoặc 1 địa chỉ IP sử dụng cho phiên LDP. Sự thay đổi địa chỉ IP này được quảng bá trong thông điệp LDP Hello và được gửi trên cổng LDP đã được mở.
Khi giữa 2 điểm LDP có đường nhiều kết nối, địa chỉ quang bá sẽ giống nhau trên nhứng đường kết nối tương đương sử dụng chung một không gian nhãn.
Sau khi chuyển địa chỉ Loopback là địa chỉ sử dụng cho phiên LDP thì thông điệp LDP Hello được gửi cho cả 2 đường mang địa chỉ Loopback đó.
Số lượng phiên LDP giữa 2 LSR thông thường là 1 nhưng cũng có thể nhiều hơn tùy thuộc vào mode sử dụng trên cổng.
• Nếu giữa 2 LSR chỉ sử dụng không gian nhãn chung per-platform, chỉ cần một nhãn dán là đủ để trao đổi giữa 2 LSR bất kể giữa chúng có bao nhiêu đường kết nối, do đó chỉ cần 1 phiên LDP là đủ. Các router Cisco cung cấp nhãn dạng per-platform đối với kiểu khung (frame mode).
• Với không gian nhãn trên từng giao tiếp per-interface sử dụng đối với kiểu tế bào LC-ATM, với mỗi không gian nhãn per-interace cần một phiên LDP.
Lê Sơn Hà – VnPro
• Giá trị định thời
• Phương thức phân phối nhãn
• Thông số DLCI cho LC-Frame Relay
Sau khi thỏa thuận xong thông số phiên, 2 LSR sẽ giữ kết nối TCP, nếu chưa thỏa thuận được chúng sẽ cố gắng tạo một phiên LDP khác nhưng ở mức thấp.
Sau khi phiên LDP đã được thiết lập, nó sẽ được duy trì gói tin LDP nhận hay thông điệp keepalive định kì. Mỗi lần 1 LDP nhận gói tin LDP hoăc thông điệp keepalive, thì bộ định kì keepalive được reset cho LDP đấy. Bộ định thời keepalive và thời gian Hold time cho một phiên LDP có thể được cấu hình bằng câu lệnh “mpls ldp holdtime seconds” với giá trị mặc định của Hold time là 180 giây, có thể chỉnh từ 15 đến 2.147.483 giây.
Ví dụ để hiện một điểm LDP với giá trị LDP IP là 10.200.254.2.
Như hình vẽ ta thấy: port TCP của chính LDP đó là 646, còn port của LDP đầu xà là 11537. Thời gian Hold time của session là 180 giây và thông điệp keepalive (KA) gửi định kỳ 60 giây 1 lần. Ngoài ra có thể thấy thời gian của phiên LDP
Phiên LDP là một kết nối TCP được tạo ra bởi 2 địa chỉ IP của các LSR. Thông thường những địa chỉ IP này được sự dụng để tạo LDP IP cho mỗi router. Tuy nhiên nếu không muốn sử dụng địa chỉ IP này để tạo phiên có thể thay đổi nó bằng câu lệnh “mpls ldp discovery transport-address ip-address trên cổng của router để chỉ định 1 cổng hoặc 1 địa chỉ IP sử dụng cho phiên LDP. Sự thay đổi địa chỉ IP này được quảng bá trong thông điệp LDP Hello và được gửi trên cổng LDP đã được mở.
Khi giữa 2 điểm LDP có đường nhiều kết nối, địa chỉ quang bá sẽ giống nhau trên nhứng đường kết nối tương đương sử dụng chung một không gian nhãn.
Sau khi chuyển địa chỉ Loopback là địa chỉ sử dụng cho phiên LDP thì thông điệp LDP Hello được gửi cho cả 2 đường mang địa chỉ Loopback đó.
Số lượng phiên LDP giữa 2 LSR thông thường là 1 nhưng cũng có thể nhiều hơn tùy thuộc vào mode sử dụng trên cổng.
• Nếu giữa 2 LSR chỉ sử dụng không gian nhãn chung per-platform, chỉ cần một nhãn dán là đủ để trao đổi giữa 2 LSR bất kể giữa chúng có bao nhiêu đường kết nối, do đó chỉ cần 1 phiên LDP là đủ. Các router Cisco cung cấp nhãn dạng per-platform đối với kiểu khung (frame mode).
• Với không gian nhãn trên từng giao tiếp per-interface sử dụng đối với kiểu tế bào LC-ATM, với mỗi không gian nhãn per-interace cần một phiên LDP.
Lê Sơn Hà – VnPro