CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU MỘT SỐ THẾ HỆ MẠNG
1.1 MẠNG IPa. Chuyển tiếp IP và những hạn chế của nó
Như ta đã biết, Internet là một tập hợp các mạng kết nối với nhau dùng để chuyển tiếp gói tin giữa các host sử dụng IP. IP cung cấp dịch vụ đóng gói vô hướng, không có sự đảm bảo phân phối gói tin. Trong mô hình Internet các hệ thống dùng để chuyển tiếp gói tin gọi là Router dùng để chuyển tiếp gói tin đến đích. Để thực hiện điều này router cần xác định nexthop và interface ngõ ra để chuyển tiếp gói tin. Thông tin này có được thông qua các thông tin định tuyến được sử dụng để xây dựng bảng chuyển tiếp gói tin (Forwarding Information Base –FIB).
Tiến trình chuyển tiếp gói tin gồm 3 hoạt động sau:
+ Tìm địa chỉ để xác định interface ngõ ra
+ Chuyển tiếp gói tin
+ Phân lịch.
Hình 1.1: Chuyển tiếp gói tin trong IP
Mỗi router duy trì một bảng định tuyến học được thông qua các giao thức định tuyến hoặc định tuyến tĩnh. Bảng định tuyến này có thể có kích thước cực kì lớn, trong Internet nó có thể có đến 50 ngàn entry. Đối với mỗi gói tin đi vào router, địa chỉ IP đích sẽ được kiểm tra, dựa vào thông tin trong bảng định tuyến sẽ xác định hop kế tiếp và interface ngõ ra để chuyển tiếp gói tin. Quyết định chuyển tiếp được thực hiện độc lập trên mỗi router trong mạng. Ngoài ra, việc sử dụng subnet mask yêu cầu địa chỉ IP đích trong mào đầu của gói tin đi vào phải thích hợp với mask trong bảng định tuyến, nghĩa là dựa trên quy tắc "longest match" để xem thử entry nào có mask với số bit đúng nhất với địa chỉ gói tin sẽ được dùng làm thông tin chuyển tiếp. Do đó, chuyển tiếp IP có thể được xem là tiến trình ánh xạ mỗi địa chỉ IP đích đến hop kế tiếp. Vì mỗi router có số lượng next-hop giới hạn, nên chuyển tiếp IP có thể được xem như là quá trình ánh xạ tập hợp các gói tin vào số next-hop giới hạn đó hoặc tương đương với số lượng subnet trên router. Tất cả các gói tin trong một subnet không có sự phân biệt nhau và được chuyển tiếp theo cùng một phương thức xác định, chúng đi qua cùng một đường dẫn đến mạng. Một nhóm gói tin như vậy được gọi là lớp chuyển tiếp tương đương FEC (Forwarding Equivalence Class). Khi gói tin di chuyển đến đích cuối cùng, mỗi router dọc đường đi sẽ kiểm tra địa chỉ đích của gói tin và đăng kí nó đến FEC.
Ta có thể thấy rõ rằng chuyển tiếp IP yêu cầu hoạt động tìm kiếm địa chỉ IP phức tạp ở mỗi router dọc đường đi của gói tin. Bất cứ sự thay đổi nào về thông tin điều khiển việc chuyển tiếp của gói tin sẽ được thông báo cho tất cả các thiết bị trong miền định tuyến, dẫn đến để xử lý cho xong một gói tin làm tốn thời gian cho những việc sau: thời gian tìm kiếm, thời gian cập nhật, và tốn bộ nhớ xử lý, tốn CPU.
Tất cả tiến trình định tuyến và chuyển tiếp nói trên đây diễn ra ở lớp Network. Các router có thể kết nối trực tiếp với nhau theo mô hình điểm-điểm, hoặc là có thể kết nối với nhau bằng các switch mạng LAN hay mạng WAN (ví dụ mạng Frame Relay, ATM).
Hình 1.2: Mạng Frame-relay
+ Mỗi lần một router mới kết nối vào mạng WAN lõi, một kênh ảo phải được thiết lập giữa router này và router khác (nếu có nhu cầu cần chuyển tiếp gói tin tối ưu).
+ Với việc cấu hình giao thức định tuyến, mỗi router gắn vào mạng WAN lớp 2 (được xây dựng với các ATM hay Frame Relay switch) cần có một kênh ảo dành trước với mỗi router khác kết nối vào mạng lõi đó. Để đạt được độ dự phòng mong muốn, mỗi router cũng phải thiết lập mối quan hệ cận kề định tuyến với router khác. Kết quả là tạo ra mô hình mạng full-mesh, trong đó bản thân mỗi router sẽ nắm giữ một số lượng lớn láng giềng có mối quan hệ cận kề về giao thức định tuyến, từ đó tạo ra lưu lượng định tuyến với số lượng lớn.
+ Khó mà biết chính xác bao nhiêu lưu lượng chạy giữa trên hai router trong mạng.
Từ những hạn chế nói trên rõ ràng cần phải có một cơ chế khác để có thể trao đổi thông tin lớp mạng giữa các router và WAN switch, và để cho phép các switch tham gia vào tiến trình quyết định chuyển tiếp gói tin tức là không cần phải có các kênh ảo giữa các router biên nữa. Để đạt được sự chuyển tiếp như vậy thì trong bất kì môi trường mạng nào các thiết bị chuyển tiếp không nên phụ thuộc vào thông tin có trong mào đầu gói tin, thiết bị này chỉ cần chuyển mạch gói tin từ ingress router đến egress router mà không cần phân tích địa chỉ IP
đích có trong gói tin. Do đó, đối với mỗi gói tin được chuyển tiếp sẽ có một nhãn được thêm vào, nhãn này sẽ đảm trách các vấn đề chuyển tiếp gói tin đến đích, các vấn đề về QoS, v.v... nghĩa là chuyển tiếp gói tin dựa trên nhãn. Bất kỳ sự thay đổi nào trong tiến trình quyết định sẽ được thông báo cho router khác trong mạng thông qua việc phân phối một nhãn mới. Đó là lý do ra đời của MPLS (Multiprotocol Label Switching) - công nghệ chuyển mạch nhãn đa giao thức.
1.2 MẠNG MPLS
MPLS là công nghệ thường dùng trong mạng core, bởi vì trong mạng core là nơi mà mọi dữ liệu của của các mạng thuê bao đều đổ về đây trước khi tới đích, vì vậy nó sẽ chịu một tải trọng rất lớn nếu chỉ sử dụng các công nghệ bình thường thì việc xảy ra nghẽn mạng là không thể tránh khỏi, mạng MPLS có thể đáp ứng được các yêu cầu khắc khe trên, nó sử dụng chuyển mạch nhãn (Swithcing Label) chứ không routing như mạng IP.
Một mạng MPLS điển hình:
Hình 1.3: Mạng MPLS
Comment