Hai vấn đề lớn mà IP v.4 đang phảI đốI mặt là việc thiếu hụt các địa chỉ, đặc biệt là các không gian địa chỉ tầm trung (lớp B) và việc phát triển về kích thước rất nguy hiểm của các bảng định tuyến trong Internet.
Trong những năm 1990, CIDR được xây dựng dựa trên khái niệm mặt nạ địa chỉ (address mask). CIDR đã tạm thời khắc phục được những vấn đề nêu trên. Khía cạnh tổ chức mang tính thứ bậc (hieraichial) của CIDR đã cảI tiến khả năng mở rộng của IP v.4.
Mặc dù có thêm nhiều công cụ khác ra đời như kỹ thuật subnetting (1985), kỹ thuật VLSM (1987) và CIDR (1993), các kỹ thuật trên đã không cứu vớt IP v.4 ra khỏI một vấn đề đơn giản: không có đủ địa chỉ cho các nhu cầu tương lai. Có khoảng 4 tỉ địa chỉ IP v.4 nhưng khoảng địa chỉ này là sẽ không đủ trong tương lai vớI những thiết bị kết nốI vào Internet và các thiết bị ứng dụng trong gia đình có thể yêu cầu ỊP
Trong những năm 1990, CIDR được xây dựng dựa trên khái niệm mặt nạ địa chỉ (address mask). CIDR đã tạm thời khắc phục được những vấn đề nêu trên. Khía cạnh tổ chức mang tính thứ bậc (hieraichial) của CIDR đã cảI tiến khả năng mở rộng của IP v.4.
Mặc dù có thêm nhiều công cụ khác ra đời như kỹ thuật subnetting (1985), kỹ thuật VLSM (1987) và CIDR (1993), các kỹ thuật trên đã không cứu vớt IP v.4 ra khỏI một vấn đề đơn giản: không có đủ địa chỉ cho các nhu cầu tương lai. Có khoảng 4 tỉ địa chỉ IP v.4 nhưng khoảng địa chỉ này là sẽ không đủ trong tương lai vớI những thiết bị kết nốI vào Internet và các thiết bị ứng dụng trong gia đình có thể yêu cầu ỊP
Comment