Routing Information Protocol (RIP) là một giao thức định tuyến động đầu tiên ra đời trong thập niên 1970. Sau đó, vào giữa thập niên 1990 RIPv2 ra đời bổ sung những thiếu sót cho RIPv1.
Cũng trong thời gian đó, IPv6 cũng đang được phát triển, để hỗ trợ định tuyến choIPv6 Hội Đồng IETF đã đưa ra 1 phiên bản của RIP mới hỗ trợ cho IPv6. Nhưng thay vì đặt tên cho giao thức là RIPv3 thì người tạo nên giao thức lại chọn đặt tên cho giao thức này với tên mới và lấy version 1. Tuy nhiên, không ai quan tâm đến cái tên mà chỉ đơn giản gọi là RIP Next Generation (RIPng).
Routing Information Protocol next generation (RIPng – RFC 2080) là một giao thức định tuyến theo vector khoảng cách với số hop giới hạn là 15. Sử dụng các kỹ thuật split-horizon, poison reverse, hold-down timer, triggered updates để ngăn chặn tình trạng lặp vòng định tuyến.
• Tương tự với RIP và RIPv2 cho địa chỉ IPv4, RIPng sử dụng giao thức định tuyến dựa trên giải thuật Bellman-Ford.
• Sử dụng IPv6 cho vận chuyển.
• Bao gồm IPv6 prefix và địa chỉ IPv6 của hop tiếp theo.
• Sử dụng địa chỉ FF02::9 là địa chỉ multicast cho tất cả các RIP-Router. FF02::9 được xem như địa chỉ đích cho tất cả các gói tin RIP updates.
• Gửi thông tin update trên UDP port 521.
Command : Loại thông điệp. 0x01 là thông điệp Request, 0x02 là thông điệp Response.
• Version : Phiên bản của RIPng. Hiện tại chỉ là 0x01.
• Route table entry (RTE) : giá trị bảng định tuyến.
Có 2 định dạng RTE cho RIPng:
• Next hop RTE : Định nghĩa địa chỉ IPv6 của hop tiếp theo.
• IPv6 prefix RTE : Mô tả địa chỉ IPv6 đích, route tag, chiều dài prefix và metric trong bảng định tuyến RIPng.
Nguyễn Đình Việt – VnPro
Cũng trong thời gian đó, IPv6 cũng đang được phát triển, để hỗ trợ định tuyến choIPv6 Hội Đồng IETF đã đưa ra 1 phiên bản của RIP mới hỗ trợ cho IPv6. Nhưng thay vì đặt tên cho giao thức là RIPv3 thì người tạo nên giao thức lại chọn đặt tên cho giao thức này với tên mới và lấy version 1. Tuy nhiên, không ai quan tâm đến cái tên mà chỉ đơn giản gọi là RIP Next Generation (RIPng).
Routing Information Protocol next generation (RIPng – RFC 2080) là một giao thức định tuyến theo vector khoảng cách với số hop giới hạn là 15. Sử dụng các kỹ thuật split-horizon, poison reverse, hold-down timer, triggered updates để ngăn chặn tình trạng lặp vòng định tuyến.
• Tương tự với RIP và RIPv2 cho địa chỉ IPv4, RIPng sử dụng giao thức định tuyến dựa trên giải thuật Bellman-Ford.
• Sử dụng IPv6 cho vận chuyển.
• Bao gồm IPv6 prefix và địa chỉ IPv6 của hop tiếp theo.
• Sử dụng địa chỉ FF02::9 là địa chỉ multicast cho tất cả các RIP-Router. FF02::9 được xem như địa chỉ đích cho tất cả các gói tin RIP updates.
• Gửi thông tin update trên UDP port 521.
Định dạng gói tin RIPng
Command : Loại thông điệp. 0x01 là thông điệp Request, 0x02 là thông điệp Response.
• Version : Phiên bản của RIPng. Hiện tại chỉ là 0x01.
• Route table entry (RTE) : giá trị bảng định tuyến.
Có 2 định dạng RTE cho RIPng:
• Next hop RTE : Định nghĩa địa chỉ IPv6 của hop tiếp theo.
• IPv6 prefix RTE : Mô tả địa chỉ IPv6 đích, route tag, chiều dài prefix và metric trong bảng định tuyến RIPng.
Định dạng của next hop RTE
Định dạng củ Ipv6 Prefix RTE
Nguyễn Đình Việt – VnPro