Tương tự như các IPv4 Node, các IPv6 Node sử dụng một bảng định tuyến IPv6 cục bộ để quyết định cách để truyền packet đi. Các entry trong bảng định tuyến được tạo một cách mặc định khi IPv6 khởi tạo và các entry khác sẽ được thêm vào khi nhận được các gói tin Router Advertisement chứa các prefix và các route, hay qua việc cấu hình tĩnh bằng tay.
1. Các đặc tính của bảng định tuyến
Một bảng định tuyến sẽ có mặt trên tất cả các node chạy giao thức IPv6. Bảng định tuyến lưu những thông tin về các subnet (mạng con) của mạng và một next hop (điểm tiếp theo) để có thể đến được subnet đó. Trước khi bảng định tuyến được kiểm tra, thì bộ nhớ đích đến sẽ được kiểm tra xem có những entry nào trong đó khớp với địa chỉ
đích có trong IPv6 header của gói tin hay không. Nếu không có thì bảng định tuyến sẽ được sử dụng để quyết định.
Interface được sử dụng để truyền gói tin (next hop interface). Interface xác định Interface vật lý hay luận lý được sử dụng để truyền gói tin đến đích của nó hay router tiếp theo.
Địa chỉ Next hop: với những đích nằm trên cùng một liên kết cục bộ thì địa chỉ Next hop chính là địa chỉ đích của gói tin. Với những đích không nằm cùng subnet thì địa chỉ Next hop chính là địa chỉ của một router.
Sau khi interface và địa chỉ của Next hop được xác định thì node sẽ cập nhật bộ nhớ cache mới. Các gói tin tiếp theo sẽ được truyền đến đích sử dụng cache này để đi tới đích mà không phải kiểm tra bảng định tuyến.
2. Các loại entry trong bảng định tuyến IPv6
Các entry trong bảng định tuyến IPv6 được sử dụng để lưu những loại đường sau:
• Các đường được kết nối trực tiếp. Những route này là những prefix cho những subnet được kết nối trực tiếp và thường là có kích thước prefix là 64 bit.
• Những route của các mạng ở xa: những route này là những prefix của những mạng không được kết nối trực tiếp nhưng có thể đến được qua các router khác.
Những route này là những prefix cho một subnet (thường có prefix là /64) hay là prefix cho một tầm địa chỉ (thường có prefix nhỏ hơn 64).
• Các route của host: một host route là một route cho một địa chỉ IPv6 xác định.
Với các host route thì prefix là một địa chỉ IPv6 xác định với prefix là 128 bit.
• Default route: được sử dụng khi một mạng không được tìm thấy đường đi trong bảng định tuyến. Có prefix là ::/0
3. Quá trình định tuyến
Để quyết định sẽ sử dụng entry nào trong bảng định tuyến để truyền gói tin thì IPv6 sử dụng các quá trình sau :
• Với mỗi entry trong một bảng định tuyến, nó sẽ so sánh các bit trong network prefix với cùng các bit đó trong địa chỉ đích với số bit sẽ được xác định bởi prefix của route. Nếu tất cả đều khớp thì route đó sẽ là lựa chọn cho đích.
• Danh sách các route được khớp sẽ được xử lý lại. Route có chiều dài prefix lớn nhất sẽ được chọn (theo quy tắc longest match). Longest match route sẽ là route tốt nhất cho đích. Nếu nhiều entry cùng thoả mãn (cùng prefix) thì router sẽ chọn route nào có metric nhỏ nhất (theo quy tắc lowest metric). Nếu cả hai thông số trên đều trùng thì router sẽ chọn 1 để sử dụng.
• Với một đích bất kỳ cho trước, thì quá trình trên là kết quả của việc tìm route theo thứ tự sau:
• Một host route khớp với toàn bộ địa chỉ đích.
• Một network route với prefix lớn nhất khớp với địa chỉ đích.
• Default router.
Route được chọn sẽ có interface và địa chỉ của Next hop. Nếu quá trình định đường trên host thất bại thì IPv6 sẽ giả sử rằng đích có thể đến được một cách cục bộ. Còn nếu việc định tuyến trên router thất bại thì IPv6 sẽ gửi một ICMP Destination Unreachable-No Route to Destination về cho máy gửi và bỏ gói tin.
Nguyễn Đình Việt – VnPro
1. Các đặc tính của bảng định tuyến
Một bảng định tuyến sẽ có mặt trên tất cả các node chạy giao thức IPv6. Bảng định tuyến lưu những thông tin về các subnet (mạng con) của mạng và một next hop (điểm tiếp theo) để có thể đến được subnet đó. Trước khi bảng định tuyến được kiểm tra, thì bộ nhớ đích đến sẽ được kiểm tra xem có những entry nào trong đó khớp với địa chỉ
đích có trong IPv6 header của gói tin hay không. Nếu không có thì bảng định tuyến sẽ được sử dụng để quyết định.
Interface được sử dụng để truyền gói tin (next hop interface). Interface xác định Interface vật lý hay luận lý được sử dụng để truyền gói tin đến đích của nó hay router tiếp theo.
Địa chỉ Next hop: với những đích nằm trên cùng một liên kết cục bộ thì địa chỉ Next hop chính là địa chỉ đích của gói tin. Với những đích không nằm cùng subnet thì địa chỉ Next hop chính là địa chỉ của một router.
Sau khi interface và địa chỉ của Next hop được xác định thì node sẽ cập nhật bộ nhớ cache mới. Các gói tin tiếp theo sẽ được truyền đến đích sử dụng cache này để đi tới đích mà không phải kiểm tra bảng định tuyến.
2. Các loại entry trong bảng định tuyến IPv6
Các entry trong bảng định tuyến IPv6 được sử dụng để lưu những loại đường sau:
• Các đường được kết nối trực tiếp. Những route này là những prefix cho những subnet được kết nối trực tiếp và thường là có kích thước prefix là 64 bit.
• Những route của các mạng ở xa: những route này là những prefix của những mạng không được kết nối trực tiếp nhưng có thể đến được qua các router khác.
Những route này là những prefix cho một subnet (thường có prefix là /64) hay là prefix cho một tầm địa chỉ (thường có prefix nhỏ hơn 64).
• Các route của host: một host route là một route cho một địa chỉ IPv6 xác định.
Với các host route thì prefix là một địa chỉ IPv6 xác định với prefix là 128 bit.
• Default route: được sử dụng khi một mạng không được tìm thấy đường đi trong bảng định tuyến. Có prefix là ::/0
3. Quá trình định tuyến
Để quyết định sẽ sử dụng entry nào trong bảng định tuyến để truyền gói tin thì IPv6 sử dụng các quá trình sau :
• Với mỗi entry trong một bảng định tuyến, nó sẽ so sánh các bit trong network prefix với cùng các bit đó trong địa chỉ đích với số bit sẽ được xác định bởi prefix của route. Nếu tất cả đều khớp thì route đó sẽ là lựa chọn cho đích.
• Danh sách các route được khớp sẽ được xử lý lại. Route có chiều dài prefix lớn nhất sẽ được chọn (theo quy tắc longest match). Longest match route sẽ là route tốt nhất cho đích. Nếu nhiều entry cùng thoả mãn (cùng prefix) thì router sẽ chọn route nào có metric nhỏ nhất (theo quy tắc lowest metric). Nếu cả hai thông số trên đều trùng thì router sẽ chọn 1 để sử dụng.
• Với một đích bất kỳ cho trước, thì quá trình trên là kết quả của việc tìm route theo thứ tự sau:
• Một host route khớp với toàn bộ địa chỉ đích.
• Một network route với prefix lớn nhất khớp với địa chỉ đích.
• Default router.
Route được chọn sẽ có interface và địa chỉ của Next hop. Nếu quá trình định đường trên host thất bại thì IPv6 sẽ giả sử rằng đích có thể đến được một cách cục bộ. Còn nếu việc định tuyến trên router thất bại thì IPv6 sẽ gửi một ICMP Destination Unreachable-No Route to Destination về cho máy gửi và bỏ gói tin.
Nguyễn Đình Việt – VnPro