Mạng Campus Enterprise là nền tảng hỗ trợ các ứng dụng kinh doanh, nâng cao năng suất, cung cấp vô số các dịch vụ cho người dùng.
Đặc điểm của ứng dụng mạng và các nhu cầu ảnh hướng tới việc thiết kế trong nhiều cách. Ứng dụng là một trong những thứ then chốt đối với tổ chức, và nhu cầu mạng của những ứng dụng này, xác định loại hình lưu thông bên trong mạng doanh nghiệp, mà nó ảnh hưởng tới việc sử dụng băng thông, thời gian đáp ứng.
Có 4 kiểu giao tiếp giữa các ứng dụng qua mạng:
* Peer-peer: là các ứng dụng mà đa số các lưu thông mạng truyền qua từ một thiết bị đến một thiết bị khác thông qua mạng của tổ chức. Ví dụ: Thông báo khẩn cấp (Intant messaging), Cuộc gọi điện thoại IP (IP phone calls), Chia sẻ tập tin (File sharing), Hệ thống hội nghị qua video (videoconference systems).
* Client – Local server: Thiết bị client và server được đặt chung một đoạn mạng LAN, theo quy tắc 80/20; 80% lưu lượng mạng dành cho bên trọng mạng, 20% còn lại là cho bên ngoài. Do đó, một vài dữ liệu trao đổi với đoạn mạng khác thì băng thông yêu cầu cho lưu đến mạng khác thường thông không đạt yêu cầu.
* Client – Server Farm: Trong một tổ chức lớn yêu cầu của người phải nhanh, đáng tin cậy, điều khiển truy cập đến các ứng dụng quan trọng.
Do đó, các server được đặt ở trung tâm của mạng thay vì đặt ở trong cùng đoạn mạng với client, nơi đặt các server được gọi là Server Farm, vùng này yêu hạ tầng mạng phải bảo mật, tính sẵn sàng cao; các switch LAN với các kỹ thuật tốc độ cao nhất, như Gigabit Ethernet.
Trong tổ chức lớn, thì lưu thông ứng dụng phải truyền qua hơn một đường dây, LAN, VLAN để đến Server. Client – Server Farm áp dụng quy tắc 20/80; 20% lưu lượng dành cho đoạn mạng LAN cục bộ, 80% dành cho các đoạn mạng bên ngoài để đến các Server trung tâm. (Mail server, File server, Data server).
* Client – Enterprise Edge:
Một vài server được đặt trên vùng biên (Enterprise Edge) sử dụng để trao đổi dữ liệu giữa tổ chức với các server công cộng của tổ chức. Vấn đề quan trọng nhất là bảo mật và tính sẵn sàng cao; các ứng dụng được cài đặt trên vùng biên quyết định đến dòng xử lý của tổ chức.
Các ứng dụng ở vùng biên thường dựa trên kỹ thuật web. Ví dụ: mail ngoài, DNS, server web công cộng, hoặc các ứng dụng thương mại điện tử của một tổ chức cung cấp cho đối tác.
Huỳnh Huy Cường – VnPro
Đặc điểm của ứng dụng mạng và các nhu cầu ảnh hướng tới việc thiết kế trong nhiều cách. Ứng dụng là một trong những thứ then chốt đối với tổ chức, và nhu cầu mạng của những ứng dụng này, xác định loại hình lưu thông bên trong mạng doanh nghiệp, mà nó ảnh hưởng tới việc sử dụng băng thông, thời gian đáp ứng.
Có 4 kiểu giao tiếp giữa các ứng dụng qua mạng:
* Peer-peer: là các ứng dụng mà đa số các lưu thông mạng truyền qua từ một thiết bị đến một thiết bị khác thông qua mạng của tổ chức. Ví dụ: Thông báo khẩn cấp (Intant messaging), Cuộc gọi điện thoại IP (IP phone calls), Chia sẻ tập tin (File sharing), Hệ thống hội nghị qua video (videoconference systems).
* Client – Local server: Thiết bị client và server được đặt chung một đoạn mạng LAN, theo quy tắc 80/20; 80% lưu lượng mạng dành cho bên trọng mạng, 20% còn lại là cho bên ngoài. Do đó, một vài dữ liệu trao đổi với đoạn mạng khác thì băng thông yêu cầu cho lưu đến mạng khác thường thông không đạt yêu cầu.
* Client – Server Farm: Trong một tổ chức lớn yêu cầu của người phải nhanh, đáng tin cậy, điều khiển truy cập đến các ứng dụng quan trọng.
Do đó, các server được đặt ở trung tâm của mạng thay vì đặt ở trong cùng đoạn mạng với client, nơi đặt các server được gọi là Server Farm, vùng này yêu hạ tầng mạng phải bảo mật, tính sẵn sàng cao; các switch LAN với các kỹ thuật tốc độ cao nhất, như Gigabit Ethernet.
Trong tổ chức lớn, thì lưu thông ứng dụng phải truyền qua hơn một đường dây, LAN, VLAN để đến Server. Client – Server Farm áp dụng quy tắc 20/80; 20% lưu lượng dành cho đoạn mạng LAN cục bộ, 80% dành cho các đoạn mạng bên ngoài để đến các Server trung tâm. (Mail server, File server, Data server).
* Client – Enterprise Edge:
Một vài server được đặt trên vùng biên (Enterprise Edge) sử dụng để trao đổi dữ liệu giữa tổ chức với các server công cộng của tổ chức. Vấn đề quan trọng nhất là bảo mật và tính sẵn sàng cao; các ứng dụng được cài đặt trên vùng biên quyết định đến dòng xử lý của tổ chức.
Các ứng dụng ở vùng biên thường dựa trên kỹ thuật web. Ví dụ: mail ngoài, DNS, server web công cộng, hoặc các ứng dụng thương mại điện tử của một tổ chức cung cấp cho đối tác.
Huỳnh Huy Cường – VnPro