Cùng xem xét một ví dụ: Với mô hình trên, ta có thể thấy nó bao gồm 2 area là area 0 và area 34. Lúc này 2 Router R1 và R2 đóng vai trò là các ABRs. Chúng tham gia vào hoạt động của cả area 0 và area 34. Sự khác biệt giữa việc tính toán cost trong interarea và intra-area đó là khả năng tính toán cost. Trong trường hợp interarea ta đang xét, sẽ không có cách nào để một Router trong một area có một cái nhìn tổng quan về toàn bộ mô hình mạng bao quát vì nó không có khả năng biết được thông tin từ area khác.
Với mô hình trên, ta có thể thấy nó bao gồm 2 area là area 0 và area 34. Lúc này 2 Router R1 và R2 đóng vai trò là các ABRs. Chúng tham gia vào hoạt động của cả area 0 và area 34. Sự khác biệt giữa việc tính toán cost trong interarea và intra-area đó là khả năng tính toán cost. Trong trường hợp interarea ta đang xét, sẽ không có cách nào để một Router trong một area có một cái nhìn tổng quan về toàn bộ mô hình mạng bao quát vì nó không có khả năng biết được thông tin từ area khác.
Và như vậy, các thông số cần thiết để tính toán cost sẽ không thể được tính toán trực tiếp. Thay vì phải biết được toàn bộ thông tin về hệ thống mạng. Một Router sẽ nhận thông tin của area khác từ ABR. Dựa vào các thông tin đó để tính toán cost và đưa ra quyết định đưa các routes vào routing table.
Hãy xem xét cách R3 (nằm trong area 34) học các routes để đến được subnet 10.10.99.0/24 phía area 0. Trong mô hình trên thì R1, R2 đóng vai trò là các ABRs. R3 sẽ không xử lý toàn bộ thông tin về mô hình mạng trên. Thay vào đó, nó sẽ dựa vào thông tin được gửi từ các ABRs. Các thông tin này bao gồm:
- Subnet number và mask.
- Cost thấp nhất mà ABR có để đến các routes.
- RID của ABR.
Như vậy, việc của R3 đó là đón nhận các thông tin từ các ABRs có. Xử lý các thông tin đó để tính toán ra best routes đến subnet 10.10.99.0. Lúc này cost sẽ được tính như sau:
Bước 1: Tính toán cost trong area (intra-area) từ Router đến ABR.
Bước 2: Lấy cost đã tính, cộng thêm vào cost có đuợc của ABR từ ABR đến subnet đích. Tính toán best route từ R3 qua ABRs. Từ cách thức trên, ta có thể dễ dàng tính được đâu là best route cho R3 đến được 10.10.99.0.
Một số quy tắc chọn routes của ABRs Trong trường hợp có nhiều hơn 1 ABR kết nối đến cùng một backbone area (area 0), chúng sẽ tự tính toán bảng định tuyến cho mình. Bao gồm các interarea routes và intra-area routes. Xét lại ví dụ trên với 2 ABRs là R1 và R2.
R1 có thể tính toán các route để đến được subnet 10.10.99.0. Bởi vì giá trị cost là thay đổi được nên có thể đi qua R2 sau đó đi đến subnet đích. OSPF có 2 quy tắc áp dụng cho các ABRs:
•Khi lựa chọn route tốt nhất, một intra-area route luôn luôn tốt hơn một interarea route mà không phụ thuộc vào metric.
•Nếu một ABR học một thông điệp từ một ABR trong một area không phải là backbone area thì ABR sẽ từ chối thông điệp đó khi tính toán routes của nó.
Interarea và sự có mặt của ABRs
Với mô hình trên, ta có thể thấy nó bao gồm 2 area là area 0 và area 34. Lúc này 2 Router R1 và R2 đóng vai trò là các ABRs. Chúng tham gia vào hoạt động của cả area 0 và area 34. Sự khác biệt giữa việc tính toán cost trong interarea và intra-area đó là khả năng tính toán cost. Trong trường hợp interarea ta đang xét, sẽ không có cách nào để một Router trong một area có một cái nhìn tổng quan về toàn bộ mô hình mạng bao quát vì nó không có khả năng biết được thông tin từ area khác.
Và như vậy, các thông số cần thiết để tính toán cost sẽ không thể được tính toán trực tiếp. Thay vì phải biết được toàn bộ thông tin về hệ thống mạng. Một Router sẽ nhận thông tin của area khác từ ABR. Dựa vào các thông tin đó để tính toán cost và đưa ra quyết định đưa các routes vào routing table.
Hãy xem xét cách R3 (nằm trong area 34) học các routes để đến được subnet 10.10.99.0/24 phía area 0. Trong mô hình trên thì R1, R2 đóng vai trò là các ABRs. R3 sẽ không xử lý toàn bộ thông tin về mô hình mạng trên. Thay vào đó, nó sẽ dựa vào thông tin được gửi từ các ABRs. Các thông tin này bao gồm:
- Subnet number và mask.
- Cost thấp nhất mà ABR có để đến các routes.
- RID của ABR.
Như vậy, việc của R3 đó là đón nhận các thông tin từ các ABRs có. Xử lý các thông tin đó để tính toán ra best routes đến subnet 10.10.99.0. Lúc này cost sẽ được tính như sau:
Bước 1: Tính toán cost trong area (intra-area) từ Router đến ABR.
Bước 2: Lấy cost đã tính, cộng thêm vào cost có đuợc của ABR từ ABR đến subnet đích. Tính toán best route từ R3 qua ABRs. Từ cách thức trên, ta có thể dễ dàng tính được đâu là best route cho R3 đến được 10.10.99.0.
Một số quy tắc chọn routes của ABRs Trong trường hợp có nhiều hơn 1 ABR kết nối đến cùng một backbone area (area 0), chúng sẽ tự tính toán bảng định tuyến cho mình. Bao gồm các interarea routes và intra-area routes. Xét lại ví dụ trên với 2 ABRs là R1 và R2.
ABRs tính toán interarea routes và intra-area routes.
R1 có thể tính toán các route để đến được subnet 10.10.99.0. Bởi vì giá trị cost là thay đổi được nên có thể đi qua R2 sau đó đi đến subnet đích. OSPF có 2 quy tắc áp dụng cho các ABRs:
•Khi lựa chọn route tốt nhất, một intra-area route luôn luôn tốt hơn một interarea route mà không phụ thuộc vào metric.
•Nếu một ABR học một thông điệp từ một ABR trong một area không phải là backbone area thì ABR sẽ từ chối thông điệp đó khi tính toán routes của nó.
Hà Phùng Khắc Thăng – VnPro