Một giao thức định tuyến linkstate cần phải phân phối thông tin ràng buộc của các kết nối đến tất cả các router đang chạy TE. Sự cần thiết của giao thức định tuyến nội (IGP): IGP cần để có thể gửi tất cả thông tin mô hình mạng đến tất cả các router trong vùng chạy TE.
Chỉ có giao thức định tuyến trạng thái liên kết linkstate mới có thể làm được điều này vì nó phân phối trạng thái kết nối đến tất cả các router trong vùng của nó. Vì vậy mội router trong vùng biết được tất cả con đường có thể để đến đích. Điều mà không một giao thức định tuyến “distance vector” nào có thể thực hiện được.
Giao thức định tuyến linkstate chỉ thực sự cần thiết khi phục vụ cho MPLS-TE, còn những ứng dụng MPLS khác như VPN có thể chạy trên mọi loại giao thức định tuyến. Router đầu nhánh phải có tất cả thông tin sơ đồ để nhìn thấy tất cả những đường có thể đồng thời phải có tất cả thông tin rằng buộc của tất cả các kết nối. Thông tin rằng buộc được lấy từ thông tin của tất cả thông tin của các kết nối bật TE.
Giao thức định tuyến linkstate buộc phải được mở rổng để mang thêm thông tin nguồn tài nguyên. Các thông tin của kết nối gồm:
• TE metric
• Băng thông lớn nhất
• Băng thông dành riêng lớn nhất
• Băng thông không dành riêng lớn nhất
• Nhóm quản trị Metric TE là tham số dùng để xây dựng mô hình TE khác với mô hình IP, cụ thể là TE metric của kết nối khác với OSPF cost của kết nối.
Băng thông lớn nhất là tổng băng thông của kết nối, trong IOS Cisco giá trị này chính là giá gị băng thông vật lý hoặc băng thông được cấu hình cho kết nối. Băng thông dành riêng lớn nhất là băng thông sẵn dùng cho TE, được cấu hình bằng câu lệnh “ip rsvp bandwith”.
Băng thông không dành riêng là phần còn lại của băng thông có thể được sử dụng cho TE, nói rõ hơn nó là hiệu của băng thông dành riêng trừ cho băng thông đang dành cho đường hầm TE qua các kết nối. Nhóm quản trị là một trường 32 bit, hoạt động của mạng có thể độc lập đặt từng bit trong trường 32 bit với các ý nghĩa khác nhau. Mỗi đường kết nối có thể có cùng lúc 32 nguồn tài nguyên liên kết với nó. Những nguồn tài nguyên này được đẩy ra toàn vùng khi có sự thay đổi hay theo định kỳ, những router hỗ trợ sự thay đổi này sẽ không hiểu sự thay đổi do IGP cho TE gửi tới sẽ bỏ qua.
Chỉ có giao thức định tuyến trạng thái liên kết linkstate mới có thể làm được điều này vì nó phân phối trạng thái kết nối đến tất cả các router trong vùng của nó. Vì vậy mội router trong vùng biết được tất cả con đường có thể để đến đích. Điều mà không một giao thức định tuyến “distance vector” nào có thể thực hiện được.
Giao thức định tuyến linkstate chỉ thực sự cần thiết khi phục vụ cho MPLS-TE, còn những ứng dụng MPLS khác như VPN có thể chạy trên mọi loại giao thức định tuyến. Router đầu nhánh phải có tất cả thông tin sơ đồ để nhìn thấy tất cả những đường có thể đồng thời phải có tất cả thông tin rằng buộc của tất cả các kết nối. Thông tin rằng buộc được lấy từ thông tin của tất cả thông tin của các kết nối bật TE.
Giao thức định tuyến linkstate buộc phải được mở rổng để mang thêm thông tin nguồn tài nguyên. Các thông tin của kết nối gồm:
• TE metric
• Băng thông lớn nhất
• Băng thông dành riêng lớn nhất
• Băng thông không dành riêng lớn nhất
• Nhóm quản trị Metric TE là tham số dùng để xây dựng mô hình TE khác với mô hình IP, cụ thể là TE metric của kết nối khác với OSPF cost của kết nối.
Băng thông lớn nhất là tổng băng thông của kết nối, trong IOS Cisco giá trị này chính là giá gị băng thông vật lý hoặc băng thông được cấu hình cho kết nối. Băng thông dành riêng lớn nhất là băng thông sẵn dùng cho TE, được cấu hình bằng câu lệnh “ip rsvp bandwith”.
Băng thông không dành riêng là phần còn lại của băng thông có thể được sử dụng cho TE, nói rõ hơn nó là hiệu của băng thông dành riêng trừ cho băng thông đang dành cho đường hầm TE qua các kết nối. Nhóm quản trị là một trường 32 bit, hoạt động của mạng có thể độc lập đặt từng bit trong trường 32 bit với các ý nghĩa khác nhau. Mỗi đường kết nối có thể có cùng lúc 32 nguồn tài nguyên liên kết với nó. Những nguồn tài nguyên này được đẩy ra toàn vùng khi có sự thay đổi hay theo định kỳ, những router hỗ trợ sự thay đổi này sẽ không hiểu sự thay đổi do IGP cho TE gửi tới sẽ bỏ qua.
Lê Sơn Hà – VnPro