Địa chỉ Anycast và địa chỉ IPv6 đặc biệt
1. Địa chỉ Anycast
+ Địa chỉ Anycast được gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những nodes khác nhau), và những gói tin có địa chỉ này sẽ được chuyển đổi giao diện gần nhất có địa chỉ này. Khái niệm gần nhất ở đây dựa vào khoảng cách gần nhất xác định qua giao thức định tuyến sử dụng. Thay vì gửi 1 gói tin đến 1 server nào đó, nó gửi gói tin đến địa chỉ chung mà sẽ được nhận ra bởi tất cả các loại server trong loại nào đó, và nó tin vào hệ thống đình tuyến để đưa gói tin đến các server gần nhất này.
+ Trong giao thức IPv6, địa chỉ anycast không có cấu trúc đặc biệt. Các địa chỉ Anycast nằm trong một phần không gian của địa chỉ unicast. Do đó, về mặt cấu trúc địa chỉ Anycast không thể phân biệt với địa chỉ Unicast. Khi những địa chỉ Unicast được gán nhiều hơn cho một giao diện nó trở thành địa chỉ Anycast. Đối với những node được gán địa chỉ này phải được cấu hình với ý nghĩa của địa chỉ anycast. Trong cấu trúc của bất kỳ một địa chỉ anycast đều có một phần tiền tố P dài nhất để xác định phạm vi (vùng) mà địa chỉ anycast đó gán cho các giao diện.
+ Theo cấu trúc này, tiền tố P cho phép thực hiện các qui tắc định tuyến đối với địa chỉ anycast như sau:
- Đối với phần phía trong của mạng (vùng): Các giao diện được gần các địa chỉ anycast phải khai báo trong bảng định tuyến trên router của hệ thống đó là những mục riêng biệt với nhau.
- Đối với giao tiếp bên ngoài mang, khai báo trên router chỉ gồm một mục là phần tiền tố P (có thể hiểu phần tiền tố này định danh cho một subnet của mạng trong).
Chú ý: Trong trường hợp phần tiền tố P của địa chỉ anycast là một tập các giá trị 0. Khi đó các giao diện được gán địa chỉ anycast này không nằm trong một vùng ("vùng" ở đây được hiểu là vùng logic). Do vậy phải khai báo trên các bảng định tuyến như đối với dạng địa chỉ Global Unicast (nghĩa là phải khai báo riêng rẽ từng giao diện). Qua cơ chế định tuyến đối với dạng địa chỉ Anycast mô tả ở trên ta thấy mục đích thiết kế của loại địa chỉ Anycast để hỗ trợ nhưng tổ chức mà cấu trúc mạng của nó được chia theo cấu trúc phân cấp. Trong đó địa chỉ anycast được gán cho các router - mà các router này được chia thành các vùng hay các "đoạn". Khi một gói tin đến router cấp cao nhất trong hệ thống nó sẽ được chuyển đến đồng thời các router trong một "đoạn”.
+ Sử dụng địa chỉ anycast có những hạn chế như sau:
- Một địa chỉ anycast không được sử dụng làm địa chỉ nguồn của một gói tin IPv6.
- Một địa chỉ anycast không được phép gán cho một host IPv6 do vậy nó chỉ được gán cho một router IPv6. Có một loại địa chỉ anycast đặc biệt được sử dụng để định danh cho một subnet. Cấu trúc của loại địa chỉ này như sau:
+ Phần subnet prefix trong cấu trúc địa chỉ này xác định một liên kết cụ thể. Tính chất của loại địa chỉ anycast giống với địa chỉ unicast link-local gán cho các giao diện trong đóphân định danh giao diện được đặt là 0. Loại địa chỉ này được sử dụng cho những node cần giao tiếp đồng thời với một tập các router trên mạng. Ví dụ người dùng di động có nhu cầu đồng thời cũng một lúc giao tiếp với các máy cố định và với các máy trong mạng di động.
2. Địa chỉ IPv6 đặc biệt
* Địa chỉ không xác định
+ Địa chỉ 0:0:0:0:0:0:0:0 được gọi là địa chỉ không xác định. Địa chỉ này không thật sự được gán cho một giao diện nào. Một host khi khởi tạo có thể sử dụng địa chỉ này như là địa chỉ nguồn của nó trước khi nó biết được địa chỉ thật của nó
+ Một địa chỉ không xác định không bao giờ có thể đóng vai trò là địa chỉ đích trong ghi tin IPv6 hay trong phần header của quá trình định tuyến.
* Địa chỉ Loopback
+ Địa chỉ 0:0:0:0:0:0:0:1 được gọi là địa chỉ loopback. Một nodes có thể sử dùng địa chỉ này để gửi một gói tin IPv6 cho chính nó.
+ Địa chỉ loopback không bao giờ được sử dụng như địa chỉ nguồn của bất kỳ ghi tin IPv6 nào để gửi ra ngoài nodes.
+ Một gói tin với địa chỉ loopback là địa chỉ đích sẽ không bao giờ có thể ra khỏi node đó.
1. Địa chỉ Anycast
+ Địa chỉ Anycast được gán cho một nhóm các giao diện (thông thường là những nodes khác nhau), và những gói tin có địa chỉ này sẽ được chuyển đổi giao diện gần nhất có địa chỉ này. Khái niệm gần nhất ở đây dựa vào khoảng cách gần nhất xác định qua giao thức định tuyến sử dụng. Thay vì gửi 1 gói tin đến 1 server nào đó, nó gửi gói tin đến địa chỉ chung mà sẽ được nhận ra bởi tất cả các loại server trong loại nào đó, và nó tin vào hệ thống đình tuyến để đưa gói tin đến các server gần nhất này.
+ Trong giao thức IPv6, địa chỉ anycast không có cấu trúc đặc biệt. Các địa chỉ Anycast nằm trong một phần không gian của địa chỉ unicast. Do đó, về mặt cấu trúc địa chỉ Anycast không thể phân biệt với địa chỉ Unicast. Khi những địa chỉ Unicast được gán nhiều hơn cho một giao diện nó trở thành địa chỉ Anycast. Đối với những node được gán địa chỉ này phải được cấu hình với ý nghĩa của địa chỉ anycast. Trong cấu trúc của bất kỳ một địa chỉ anycast đều có một phần tiền tố P dài nhất để xác định phạm vi (vùng) mà địa chỉ anycast đó gán cho các giao diện.
+ Theo cấu trúc này, tiền tố P cho phép thực hiện các qui tắc định tuyến đối với địa chỉ anycast như sau:
- Đối với phần phía trong của mạng (vùng): Các giao diện được gần các địa chỉ anycast phải khai báo trong bảng định tuyến trên router của hệ thống đó là những mục riêng biệt với nhau.
- Đối với giao tiếp bên ngoài mang, khai báo trên router chỉ gồm một mục là phần tiền tố P (có thể hiểu phần tiền tố này định danh cho một subnet của mạng trong).
Chú ý: Trong trường hợp phần tiền tố P của địa chỉ anycast là một tập các giá trị 0. Khi đó các giao diện được gán địa chỉ anycast này không nằm trong một vùng ("vùng" ở đây được hiểu là vùng logic). Do vậy phải khai báo trên các bảng định tuyến như đối với dạng địa chỉ Global Unicast (nghĩa là phải khai báo riêng rẽ từng giao diện). Qua cơ chế định tuyến đối với dạng địa chỉ Anycast mô tả ở trên ta thấy mục đích thiết kế của loại địa chỉ Anycast để hỗ trợ nhưng tổ chức mà cấu trúc mạng của nó được chia theo cấu trúc phân cấp. Trong đó địa chỉ anycast được gán cho các router - mà các router này được chia thành các vùng hay các "đoạn". Khi một gói tin đến router cấp cao nhất trong hệ thống nó sẽ được chuyển đến đồng thời các router trong một "đoạn”.
+ Sử dụng địa chỉ anycast có những hạn chế như sau:
- Một địa chỉ anycast không được sử dụng làm địa chỉ nguồn của một gói tin IPv6.
- Một địa chỉ anycast không được phép gán cho một host IPv6 do vậy nó chỉ được gán cho một router IPv6. Có một loại địa chỉ anycast đặc biệt được sử dụng để định danh cho một subnet. Cấu trúc của loại địa chỉ này như sau:
Cấu trúc địa chỉ Anycast
+ Phần subnet prefix trong cấu trúc địa chỉ này xác định một liên kết cụ thể. Tính chất của loại địa chỉ anycast giống với địa chỉ unicast link-local gán cho các giao diện trong đóphân định danh giao diện được đặt là 0. Loại địa chỉ này được sử dụng cho những node cần giao tiếp đồng thời với một tập các router trên mạng. Ví dụ người dùng di động có nhu cầu đồng thời cũng một lúc giao tiếp với các máy cố định và với các máy trong mạng di động.
2. Địa chỉ IPv6 đặc biệt
* Địa chỉ không xác định
+ Địa chỉ 0:0:0:0:0:0:0:0 được gọi là địa chỉ không xác định. Địa chỉ này không thật sự được gán cho một giao diện nào. Một host khi khởi tạo có thể sử dụng địa chỉ này như là địa chỉ nguồn của nó trước khi nó biết được địa chỉ thật của nó
+ Một địa chỉ không xác định không bao giờ có thể đóng vai trò là địa chỉ đích trong ghi tin IPv6 hay trong phần header của quá trình định tuyến.
* Địa chỉ Loopback
+ Địa chỉ 0:0:0:0:0:0:0:1 được gọi là địa chỉ loopback. Một nodes có thể sử dùng địa chỉ này để gửi một gói tin IPv6 cho chính nó.
+ Địa chỉ loopback không bao giờ được sử dụng như địa chỉ nguồn của bất kỳ ghi tin IPv6 nào để gửi ra ngoài nodes.
+ Một gói tin với địa chỉ loopback là địa chỉ đích sẽ không bao giờ có thể ra khỏi node đó.
Nguyễn Hồng Khanh – VnPro