Khi một máy trạm gửi lưu lượng đến máy bên ngoài, các máy trạm có nhiều cách nhận ra địa chỉ của router trên phân đoạn mạng của mình, bao gồm các bước sau đây:
• ARP
• Explicit configuration
• ICMP Router Discovery Protocol (RDP)
• RIP
• HSRP
• VRRP
• GLBP
• VSS
- ARP: Máy trạm IP gửi một frame ARP để dò tìm trạm đầu xa. Router chạy Proxy ARP để có thể đáp ứng địa chỉ của lớp data link. Mặc định router Cisco chạy proxy ARP.
- Explicit Configuration: Hầu hết các máy trạm IP phải được cấu hình default gateway. Trong môi trường IP, phương pháp phổ biến nhất cho một máy trạm để tìm thấy máy chủ là thông qua Explicit Configuration (a default router). Nếu default router của máy trạm không có sẵn, người quản trị mạng phải cấu hình lại máy trạm với địa chỉ của router khác. Một số ngăn xếp IP (IP stacks) cho phép bạn cấu hình nhiều default router, nhưng nhiều IP implementations chỉ hỗ trợ một default router.
- RDP: RFC 1256 đặc trưng phần mở rộng đến Control Message Internet Protocol (ICMP) cho phép máy trạm IP và Router chạy RDP để cho các máy trạm học địa chỉ của router.
- RIP: Máy trạm IP có thể chạy RIP để học các thông tin về router, tuy nhiên cách này không phổ biến và không được khuyến nghị. Bạn nên sử dụng RIP trong chế độ passive hơn là chế độ Active (Active mode có nghĩa là trạm gửi frame RIP mỗi 30 giây). Thông thường trong phương thức thực hiện này, các máy trạm là một hệ thống UNIX chạy định tuyến hoặc quá trình UNIX gated.
- HSRP: Cisco HSRP cung cấp một phương thức giao tiếp ngang hàng cho các máy trạm IP chỉ hỗ trợ một default router, thậm chí nếu default router trở nên không khả thi. HSRP hoạt động bằng cách tạo ra một router ảo có địa chỉ IP và địa chỉ MAC riêng. Các máy trạm sử dụng địa chỉ IP ảo như một default router. Router HSRP trên một giao tiếp mạng LAN có vai trò chỉ định hai router, một ở chế độ hoạt động và một chế độ chờ. Các router ở chế độ hoạt động gửi bản tin Hello định kỳ. Các router HSRP khác lắng nghe các bản tin Hello. Nếu các Router active bị lỗi và các router HSRP khác ngừng nhận bản tin Hello, các Router dự phòng sẽ tiếp nhận và trở thành các Router active. HSRP làm việc dựa trên ARP. Khi Router HSRP chế độ active nhận được một yêu cầu ARP cho một nút mạng không cùng mạng LAN, router trả lời với địa chỉ MAC của Router ảo thay vì địa chỉ MAC riêng của nó. Nếu các router gửi trả lời ARP ban đầu bị mất kết nối thì các Active Router vẫn có thể cung cấp lưu lượng truy cập.
Trong hình trên, các trình tự sau đây xảy ra:
1. Máy trạm được cấu hình để sử dụng Router ảo (192.168.1.1) như default router.
2. Khi khởi động, các Router bầu chọn Router A là HSRP active router, Router B là router HSRP dự phòng.
3. Khi máy trạm gửi một frame ARP để tìm kiếm default router, Router A hồi đáp với địa chỉ MAC của router ảo.
4. Nếu Router A mất kết nối, Router B sẽ trở thành active router và tiếp tục phân phối các gói tin của máy trạm. Sự thay đổi này được quảng bá cho các máy trạm.
- VRRP: VRRP là một giao thức dự phòng router, được định nghĩa trong RFC 3768. RFC 5768 định nghĩa VRRPv3 cho cả hệ thống mạng IPv4 và IPv6. VRRP được dựa trên Cisco’s HSRP, nhưng không tương thích với HSRP. VRRP xác định một giao thức bầu chọn tự động phân công trách nhiệm cho một router ảo làm router VRRP trên mạng LAN. Router VRRP kiểm soát địa chỉ IP kết hợp với một router ảo được gọi là master, và chuyển tiếp các gói tin gửi đến địa chỉ IP này.
- GLBP: GLBP bảo vệ lưu lượng dữ liệu truy cập từ router hoặc mạch bị lỗi, chẳng hạn như HSRP, trong khi vẫn cho phép chia sẻ tải các gói tin giữa một nhóm các router dự phòng. Sự khác biệt giữa GLBP với HSRP là GLBP cung cấp cân bằng tải giữa các bộ định tuyến dự phòng.
• ARP
• Explicit configuration
• ICMP Router Discovery Protocol (RDP)
• RIP
• HSRP
• VRRP
• GLBP
• VSS
- ARP: Máy trạm IP gửi một frame ARP để dò tìm trạm đầu xa. Router chạy Proxy ARP để có thể đáp ứng địa chỉ của lớp data link. Mặc định router Cisco chạy proxy ARP.
- Explicit Configuration: Hầu hết các máy trạm IP phải được cấu hình default gateway. Trong môi trường IP, phương pháp phổ biến nhất cho một máy trạm để tìm thấy máy chủ là thông qua Explicit Configuration (a default router). Nếu default router của máy trạm không có sẵn, người quản trị mạng phải cấu hình lại máy trạm với địa chỉ của router khác. Một số ngăn xếp IP (IP stacks) cho phép bạn cấu hình nhiều default router, nhưng nhiều IP implementations chỉ hỗ trợ một default router.
- RDP: RFC 1256 đặc trưng phần mở rộng đến Control Message Internet Protocol (ICMP) cho phép máy trạm IP và Router chạy RDP để cho các máy trạm học địa chỉ của router.
- RIP: Máy trạm IP có thể chạy RIP để học các thông tin về router, tuy nhiên cách này không phổ biến và không được khuyến nghị. Bạn nên sử dụng RIP trong chế độ passive hơn là chế độ Active (Active mode có nghĩa là trạm gửi frame RIP mỗi 30 giây). Thông thường trong phương thức thực hiện này, các máy trạm là một hệ thống UNIX chạy định tuyến hoặc quá trình UNIX gated.
- HSRP: Cisco HSRP cung cấp một phương thức giao tiếp ngang hàng cho các máy trạm IP chỉ hỗ trợ một default router, thậm chí nếu default router trở nên không khả thi. HSRP hoạt động bằng cách tạo ra một router ảo có địa chỉ IP và địa chỉ MAC riêng. Các máy trạm sử dụng địa chỉ IP ảo như một default router. Router HSRP trên một giao tiếp mạng LAN có vai trò chỉ định hai router, một ở chế độ hoạt động và một chế độ chờ. Các router ở chế độ hoạt động gửi bản tin Hello định kỳ. Các router HSRP khác lắng nghe các bản tin Hello. Nếu các Router active bị lỗi và các router HSRP khác ngừng nhận bản tin Hello, các Router dự phòng sẽ tiếp nhận và trở thành các Router active. HSRP làm việc dựa trên ARP. Khi Router HSRP chế độ active nhận được một yêu cầu ARP cho một nút mạng không cùng mạng LAN, router trả lời với địa chỉ MAC của Router ảo thay vì địa chỉ MAC riêng của nó. Nếu các router gửi trả lời ARP ban đầu bị mất kết nối thì các Active Router vẫn có thể cung cấp lưu lượng truy cập.
Trong hình trên, các trình tự sau đây xảy ra:
1. Máy trạm được cấu hình để sử dụng Router ảo (192.168.1.1) như default router.
2. Khi khởi động, các Router bầu chọn Router A là HSRP active router, Router B là router HSRP dự phòng.
3. Khi máy trạm gửi một frame ARP để tìm kiếm default router, Router A hồi đáp với địa chỉ MAC của router ảo.
4. Nếu Router A mất kết nối, Router B sẽ trở thành active router và tiếp tục phân phối các gói tin của máy trạm. Sự thay đổi này được quảng bá cho các máy trạm.
- VRRP: VRRP là một giao thức dự phòng router, được định nghĩa trong RFC 3768. RFC 5768 định nghĩa VRRPv3 cho cả hệ thống mạng IPv4 và IPv6. VRRP được dựa trên Cisco’s HSRP, nhưng không tương thích với HSRP. VRRP xác định một giao thức bầu chọn tự động phân công trách nhiệm cho một router ảo làm router VRRP trên mạng LAN. Router VRRP kiểm soát địa chỉ IP kết hợp với một router ảo được gọi là master, và chuyển tiếp các gói tin gửi đến địa chỉ IP này.
- GLBP: GLBP bảo vệ lưu lượng dữ liệu truy cập từ router hoặc mạch bị lỗi, chẳng hạn như HSRP, trong khi vẫn cho phép chia sẻ tải các gói tin giữa một nhóm các router dự phòng. Sự khác biệt giữa GLBP với HSRP là GLBP cung cấp cân bằng tải giữa các bộ định tuyến dự phòng.