Cho một topology như hình vẽ :
Switch D1 và D2 là 2 distributioni Switch , Access layer Switch A kết nối với D1 và D2 bằng 2 port P1 và P2.
P2 đang ở trạng thái blocking , P1 đang ở trạng thái forwarding . Giả sử kết nối trên port P1 fail .
Switch A nhận thây điều này ngay lập tức ( direct link ) và xem xét tới blocking port . Switch A thấy rằng nó vẫn còn nhận được BPDU từ root và sẽ quyết định chuyển port P2 từ trạng thái blocking sang trạng thái forwarding . Để thực hiện điều này , nó phải trải qua 2 trạng thái khác là listening và learning . Mỗi trạng thái có thời gian delay là 15s . Kết quả sau 30s , ta sẽ có topology như sau :
Uplink fast ra đời để tiết kiệm được thời gian 30s này . Sau đây là cách thức hoạt động của Backbone fast .
Uplink fast định nghĩa ra một uplink group và uplink group này bao gồm root port và các port dự phòng khác đến root bridge . Nếu root port fail ( primary uplink fail ) thì port có next lowest cost nằm trong nhóm backup này sẽ up lên ngay lập tức , thay thế root port
Đối với một stable network thì trạng thái của port và các BPDU sẽ như thế nào ?
- Nếu một port nhận được BPDU , nó sẽ có đường đến root , vì BPDU được tạo ra bởi root . Với hình trên , A có 3 port nhận được BPDU , và cả 3 port này đều dẫn đến được root . Designated port gửi ra BPDU và không dẫn đến root .
- Đối với một switch thì tất cả port nào nhận được BPDU mà không phải là root port thì đều là block port . Nếu một switch mà có 2 port dẫn đến root thì chắc chắn đã có loop xảy ra .
- Self-looped port không cung cấp đường đi dự phòng đến root . Ví dụ đổi với Switch B trong hình trên , nó block port sefl-loop lại nghĩa là không thể tự nhận BPDU của mình . Trường hợp này rõ ràng không cung cấp đường đi đến root .
Sau đây ta se demo sự hoạt động của uplink fast :
Switch D1 và D2 là 2 distributioni Switch , Access layer Switch A kết nối với D1 và D2 bằng 2 port P1 và P2.
P2 đang ở trạng thái blocking , P1 đang ở trạng thái forwarding . Giả sử kết nối trên port P1 fail .
Switch A nhận thây điều này ngay lập tức ( direct link ) và xem xét tới blocking port . Switch A thấy rằng nó vẫn còn nhận được BPDU từ root và sẽ quyết định chuyển port P2 từ trạng thái blocking sang trạng thái forwarding . Để thực hiện điều này , nó phải trải qua 2 trạng thái khác là listening và learning . Mỗi trạng thái có thời gian delay là 15s . Kết quả sau 30s , ta sẽ có topology như sau :
Uplink fast ra đời để tiết kiệm được thời gian 30s này . Sau đây là cách thức hoạt động của Backbone fast .
Uplink fast định nghĩa ra một uplink group và uplink group này bao gồm root port và các port dự phòng khác đến root bridge . Nếu root port fail ( primary uplink fail ) thì port có next lowest cost nằm trong nhóm backup này sẽ up lên ngay lập tức , thay thế root port
Đối với một stable network thì trạng thái của port và các BPDU sẽ như thế nào ?
- Nếu một port nhận được BPDU , nó sẽ có đường đến root , vì BPDU được tạo ra bởi root . Với hình trên , A có 3 port nhận được BPDU , và cả 3 port này đều dẫn đến được root . Designated port gửi ra BPDU và không dẫn đến root .
- Đối với một switch thì tất cả port nào nhận được BPDU mà không phải là root port thì đều là block port . Nếu một switch mà có 2 port dẫn đến root thì chắc chắn đã có loop xảy ra .
- Self-looped port không cung cấp đường đi dự phòng đến root . Ví dụ đổi với Switch B trong hình trên , nó block port sefl-loop lại nghĩa là không thể tự nhận BPDU của mình . Trường hợp này rõ ràng không cung cấp đường đi đến root .
Sau đây ta se demo sự hoạt động của uplink fast :
Comment