CHUYÊN ĐỀ WIRELESS
(tác giả :Nguyễn Lệ Nhã Trang)
1.1. Giới thiệu chung:
Khoảng hơn 5 năm trước, thị trường di động thế giới có những biến động mạnh mẽ, kết quả là các phương thức mạng truyền thống đã tỏ ra không còn tương thích với những thách thức được đặt ra bởi nhu cầu hiện đại. Nếu người sử dụng kết nối vào một mạng bằng cáp vật lý, dẫn đến việc di chuyển của họ bị hạn chế. Trong khi đó kết nối không dây không hạn chế việc di chuyển này và cho phép di chuyển tự do trong vai trò là một người sử dụng mạng. Chính điều này dẫn đến kỹ thuật không dây bắt đầu lấn sân sang lĩnh vực mạng cố định hay mạng có dây.
Kỹ thuật không dây là phương thức truyền dữ liệu từ điểm này đến điểm khác không sử dụng đường truyền vật lý, mà có thể sử dụng sóng vô tuyến, tế bào, hồng ngoại hay qua vệ tinh.
Kết nối không dây trong mạng điện thoại đã tạo nên một ngành công nghiệp mới, việc thêm kết nối di động vào mạng điện thoại đã tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc đến ngành kinh doanh truyền thông thoại vì từ đây người gọi có thể kết nối đến mọi người mà có không cần đến cáp. Hiện chúng ta đang đứng trước đỉnh điểm những thay đổi to lớn trong kỹ thuật mạng máy tính, kỹ thuật không dây thành công vì nó cho phép người dùng kết nối với nhau mà không quan tâm đến vị trí của họ. Kỹ thuật mạng dữ liệu không dây thành công nhất đến nay là 802.11.
Những điểm khác biệt của mạng không dây so với mạng có dây:
- Không có ranh giới vật lý: Các mạng không dây có môi trường mạng mở. Theo định nghĩa, môi trường mạng trong mạng không dây không phải là một đường dẫn được định nghĩa chứa đường cáp vật lý mà là một liên kết vô tuyến với quá trình mã hóa và giải mã riêng biệt. Bất cứ người nào cũng có thể gửi hoặc nhận được tín hiệu nếu người đó sử dụng kỹ thuật vô tuyến. Hơn nữa, sóng vô tuyến có khuynh hướng vượt ra khỏi vùng phủ sóng của nó. Không có ranh giới vật lý của môi trường mạng và dải tần nào có thể mở rộng vượt quá mức cho phép của anten ở hướng đó. Khi xây dựng một mạng không dây cần phải lưu ý vấn đề bảo đảm an toàn cho các kết nối nhằm ngăn chặn việc sử dụng trái phép, chèn lưu lượng (traffic injection) và phân tích lưu lượng.
- Môi trường vật lý động: Mạng có dây được thiết kế và lắp đặt theo những đặc tả cố định và mạng sẽ hoạt động theo như mong đợi. Ngược lại môi trường vật lý của mạng không dây là không cố định. Sóng vô tuyến bao trùm lên tất cả các đối tượng, có thể đi xuyên tường và có thể xảy ra những hoạt động không đoán trước được. Sóng vô tuyến có thể gặp phải những vấn đề như bị đứt liên kết, nhiễu sóng,…Với môi trường mạng không đáng tin cậy mạng không dây phải lưu ý đến vấn đề xác thực những khung dữ liệu nhận được để xác định những khung dữ liệu bị thất lạc.
- Bảo mật: Rất nhiều mạng không dây sử dụng sóng vô tuyến, điều này làm cho môi trường mạng vốn là môi trường mở trở thành bị chặn. Vấn đề bảo đảm đường truyền vô tuyến giữa các mạng là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với những nhà thiết kế giao thức cho mạng không dây. 802.11 không được xây dựng nhiều giao thức bảo mật, để thích ứng với môi trường truyền dẫn động và tính di động thì các giao thức được sử dụng phải có các đặc tính như xác nhận truyền dữ liệu, kiểm soát nguồn,…Mạng không dây cần có cơ chế xác thực mạnh nhằm ngăn chặn tình trạng sử dụng trái phép, các kết nối được xác thực phải được mã hóa chặt chẽ nhằm ngăn ngừa tình trạng bị chặn và xâm lấn bởi các thành phần không được cấp phép.
Những nét đặc trưng tiêu biểu của mạng không dây:
- Tính di động: có thể truy cập dữ liệu khi đang di chuyển, nâng cao hiệu quả truy xuất dữ liệu.
- Tốc độ triển khai nhanh và dễ dàng: không gặp phải những vấn đề về lắp đặt cáp mạng.
- Tính mềm dẻo: có thể thiết lập những nhóm mạng nhỏ một cách nhanh chóng, việc mở rộng mạng là dễ dàng vì môi trường mạng sẵn có ở mọi nơi; đây là nét hấp dẫn của nhất của mạng không dây đối với những khách hàng như các nhà quản lý khách sạn, sân bay, ga tàu lửa, thư viện hay quán café,…
- Chi phí: có thể giảm khi sử dụng kĩ thuật không dây, thiết bị 802.11 có thể dùng để tạo cầu nối không dây giữa hai tòa nhà; để thiết lập một cầu nối không dây cần những chi phí ban đầu như thiết bị ngoài trời, các điểm truy cập và những giao tiếp không dây. Ngoài chi phí thiết yếu ban đầu, mạng theo tiêu chuẩn 802.11 chỉ có chi phí hoạt động định kỳ hàng tháng là không đáng kể. Hơn nữa các liên kết không dây điểm-điểm rẻ hơn so với việc thuê đường truyền của các công ty điện thoại.
Mãi cho đến khi hoàn thành chuẩn 802.11 vào năm 1997, tốc độ của 802.11 nhanh chóng tăng từ 2Mbps lên 11Mbp rồi 54Mbps. Các giao tiếp mạng và anten không dây được chuẩn hóa càng tạo điều kiện xây dựng mạng không dây dễ dàng hơn. Rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ chuyển sang hướng này.
Comment