4.12.2. Trường Duration/ID
Trường này theo sau trường điều khiển khung dữ liệu, có thể là một trong ba dạng sau:
Các khung dữ liệu được truyền trong các chu kỳ không tranh chấp: suốt chu kỳ không tranh chấp, bit 14 là 0 và bit 15 là 1. Tất cả các bit khác là 0, như vậy trường duration/ID có giá trị là 32768. Giá trị này xem như là NAV, nó cho phép các trạm không nhận thông báo chu kỳ không tranh chấp để cập nhật NAV với giá trị lớn phù hợp để tránh rắc rối với các quá trình không tranh chấp.
Các khung PS-Poll: cả bit 14 và 15 đều là 1 trong các khung PS-Poll. Các trạm di động có thể quyết định để tiết kiệm nguồn bằng cách tắt các anten. Các trạm đang ở trạng thái tiết kiệm nguồn điện phải thức dậy một cách định kỳ. Để đảm bảo không khung dữ liệu nào bị mất, các trạm hoạt động từ trạng thái chờ truyền một khung PS-Poll để tìm các khung dữ liệu được đệm từ access point. Cùng với yêu cầu này, các trạm hoạt động kết hợp chặt chẽ với ID tương ứng cho biết chúng thuộc về BSS nào. AID được chứa trong khung PS-Poll và trong khoảng từ 1 đến 2007, các giá trị từ 2008 đến 16383 là giá trị dành riêng và không được sử dụng.
4.12.3. Các trường địa chỉ
Một khung 802.11 có thể chứa 4 trường địa chỉ, các trường địa chỉ được đánh số vì các trường khác nhau được sử dụng với những mục đích phụ thuộc vào kiểu khung dữ liệu. Nguyên tắc chung là địa chỉ 1 dùng cho trạm nhận, địa chỉ 2 dùng cho trạm truyền, địa chỉ 3 dùng để lọc bởi trạm nhận. Trong mạng ổn định, trường địa chỉ thứ 3 được sử dụng bởi trạm nhận để xác định khung dữ liệu có là một phần của mạng mà nó kết hợp hay không.
Địa chỉ trong 802.11 theo đề nghị của IEEE và sử dụng cho cả các mạng 802.11 khác. Các địa chỉ này dài 48 bit. Nếu bit đầu tiên được gửi đến môi trường vật lý là 0, địa chỉ thể hiện một trạm riêng lẻ (unicast). Khi bit đầu tiên là 1, địa chỉ thể hiện một nhóm các trạm vật lý và được gọi là địa chỉ multicast. Nếu tất cả các bit đều là 1 thì khung dữ liệu là một khung quảng bá và được truyền đến tất cả các trạm được kết nối với môi trường không dây.
- Địa chỉ đích: như trong mạng Ethernet, địa chỉ đích là địa chỉ MAC IEEE 48 bit tương ứng với trạm nhận cuối cùng: trạm sẽ chuyển khung dữ liệu lên lớp giao thức cao hơn để xử lý.
- Địa chỉ nguồn: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit nhận biết trạm truyền, chỉ một trạm có thể là nguồn của một khung dữ liệu vì vậy bit Individual/Group luôn là 0 cho biết một trạm riêng lẻ.
- Địa chỉ trạm nhận: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit cho biết trạm không dây nào sẽ xử lý khung dữ liệu. Nếu là một trạm không dây, địa chỉ trạm nhận là địa chỉ đích. Với các khung dữ liệu được dùng cho một nút trên Ethernet kết nối với một Access Point, trạm nhận là giao tiếp không dây trong Access Point và địa chỉ đích có thể là một Router liên kết với Ethernet.
- Địa chỉ trạm truyền: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit để nhận dạng giao tiếp không dây đã truyền khung dữ liệu lên môi trường không dây, địa chỉ trạm truyền chỉ sử dụng trong chuyển mạch không dây.
- BSSID: để nhận diện các mạng không dây khác nhau trong cùng một khu vực, các trạm có thể thuộc một BSS. Trong mạng ổn định BSSID là một địa chỉ MAC được sử dụng bởi giao tiếp không dây trong Access Point. Các mạng ad hoc sinh một BSSID ngẫu nhiên với bit Universal/Local được thiết lập là 1 để ngăn xung đột với địa chỉ MAC được gán công khai.
Số các trường địa chỉ được sử dụng tùy thuộc vào kiểu khung dữ liệu. Hầu hết các khung dữ liệu sử dụng ba trường địa chỉ nguồn, đích và BSSID. Số các trường địa chỉ và sự sắp xếp chúng trong một khung dữ liệu phụ thuộc khung được truyền như thế nào trong môi trường phân tán. Hầu hết các quá trình truyền sử dụng 3 địa chỉ là lý do tại sao chỉ 3 trong 4 địa chỉ nằm kế tiếp nhau trong khung dữ liệu.
4.12.4. Trường điều khiển trình tự (sequence control)
Trường này dài 16-bit được sử dụng cho cả tái phân mảnh và hủy các khung dư thừa, bao gồm trường fragment dài 4-bit và trường sequence dài 12-bit, số thứ tự không được sử dụng trong các khung điều khiển vì vậy không có mặt trường điều khiển trình tự.
Sự khác nhau giữa các phân mảnh là số phân mảnh. Phân mảnh đầu tiên được gán số phân mảnh là 0. Mỗi phân mảnh kế tiếp tăng số phân mảnh lên 1. Các phân mảnh được truyền lại vẫn giữ lại số thứ tự ban đầu để thực hiện tái hợp các phân mảnh.
Các trạm thực hiện các yêu cầu chất lượng dịch vụ sử dụng phiên dịch khác nhau trong trường điều khiển thứ tự vì nhiều hàng đợi truyền cần được duy trì.
Trường này theo sau trường điều khiển khung dữ liệu, có thể là một trong ba dạng sau:
H4.11: Trường Duration/ID
Thiết lập NAV: khi bit 15 là 0, trường duration/ID được dùng để thiết lập NAV. Giá trị này thể hiện thời gian tính bằng micro giây mà môi trường đang giữ ở chế độ bận cho quá trình truyền đang được thực hiện. Tất cả các trạm phải kiểm soát tiêu đề của các khung dữ liệu mà chúng nhận và cập nhật NAV. Những giá trị mở rộng từ thời gian môi trường bận, cập nhật giá trị NAV và khóa truy cập đến môi trường trong thời gian tiếp theo.Các khung dữ liệu được truyền trong các chu kỳ không tranh chấp: suốt chu kỳ không tranh chấp, bit 14 là 0 và bit 15 là 1. Tất cả các bit khác là 0, như vậy trường duration/ID có giá trị là 32768. Giá trị này xem như là NAV, nó cho phép các trạm không nhận thông báo chu kỳ không tranh chấp để cập nhật NAV với giá trị lớn phù hợp để tránh rắc rối với các quá trình không tranh chấp.
Các khung PS-Poll: cả bit 14 và 15 đều là 1 trong các khung PS-Poll. Các trạm di động có thể quyết định để tiết kiệm nguồn bằng cách tắt các anten. Các trạm đang ở trạng thái tiết kiệm nguồn điện phải thức dậy một cách định kỳ. Để đảm bảo không khung dữ liệu nào bị mất, các trạm hoạt động từ trạng thái chờ truyền một khung PS-Poll để tìm các khung dữ liệu được đệm từ access point. Cùng với yêu cầu này, các trạm hoạt động kết hợp chặt chẽ với ID tương ứng cho biết chúng thuộc về BSS nào. AID được chứa trong khung PS-Poll và trong khoảng từ 1 đến 2007, các giá trị từ 2008 đến 16383 là giá trị dành riêng và không được sử dụng.
4.12.3. Các trường địa chỉ
Một khung 802.11 có thể chứa 4 trường địa chỉ, các trường địa chỉ được đánh số vì các trường khác nhau được sử dụng với những mục đích phụ thuộc vào kiểu khung dữ liệu. Nguyên tắc chung là địa chỉ 1 dùng cho trạm nhận, địa chỉ 2 dùng cho trạm truyền, địa chỉ 3 dùng để lọc bởi trạm nhận. Trong mạng ổn định, trường địa chỉ thứ 3 được sử dụng bởi trạm nhận để xác định khung dữ liệu có là một phần của mạng mà nó kết hợp hay không.
Địa chỉ trong 802.11 theo đề nghị của IEEE và sử dụng cho cả các mạng 802.11 khác. Các địa chỉ này dài 48 bit. Nếu bit đầu tiên được gửi đến môi trường vật lý là 0, địa chỉ thể hiện một trạm riêng lẻ (unicast). Khi bit đầu tiên là 1, địa chỉ thể hiện một nhóm các trạm vật lý và được gọi là địa chỉ multicast. Nếu tất cả các bit đều là 1 thì khung dữ liệu là một khung quảng bá và được truyền đến tất cả các trạm được kết nối với môi trường không dây.
- Địa chỉ đích: như trong mạng Ethernet, địa chỉ đích là địa chỉ MAC IEEE 48 bit tương ứng với trạm nhận cuối cùng: trạm sẽ chuyển khung dữ liệu lên lớp giao thức cao hơn để xử lý.
- Địa chỉ nguồn: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit nhận biết trạm truyền, chỉ một trạm có thể là nguồn của một khung dữ liệu vì vậy bit Individual/Group luôn là 0 cho biết một trạm riêng lẻ.
- Địa chỉ trạm nhận: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit cho biết trạm không dây nào sẽ xử lý khung dữ liệu. Nếu là một trạm không dây, địa chỉ trạm nhận là địa chỉ đích. Với các khung dữ liệu được dùng cho một nút trên Ethernet kết nối với một Access Point, trạm nhận là giao tiếp không dây trong Access Point và địa chỉ đích có thể là một Router liên kết với Ethernet.
- Địa chỉ trạm truyền: là địa chỉ MAC IEEE 48 bit để nhận dạng giao tiếp không dây đã truyền khung dữ liệu lên môi trường không dây, địa chỉ trạm truyền chỉ sử dụng trong chuyển mạch không dây.
- BSSID: để nhận diện các mạng không dây khác nhau trong cùng một khu vực, các trạm có thể thuộc một BSS. Trong mạng ổn định BSSID là một địa chỉ MAC được sử dụng bởi giao tiếp không dây trong Access Point. Các mạng ad hoc sinh một BSSID ngẫu nhiên với bit Universal/Local được thiết lập là 1 để ngăn xung đột với địa chỉ MAC được gán công khai.
Số các trường địa chỉ được sử dụng tùy thuộc vào kiểu khung dữ liệu. Hầu hết các khung dữ liệu sử dụng ba trường địa chỉ nguồn, đích và BSSID. Số các trường địa chỉ và sự sắp xếp chúng trong một khung dữ liệu phụ thuộc khung được truyền như thế nào trong môi trường phân tán. Hầu hết các quá trình truyền sử dụng 3 địa chỉ là lý do tại sao chỉ 3 trong 4 địa chỉ nằm kế tiếp nhau trong khung dữ liệu.
4.12.4. Trường điều khiển trình tự (sequence control)
Trường này dài 16-bit được sử dụng cho cả tái phân mảnh và hủy các khung dư thừa, bao gồm trường fragment dài 4-bit và trường sequence dài 12-bit, số thứ tự không được sử dụng trong các khung điều khiển vì vậy không có mặt trường điều khiển trình tự.
H4.12: Trường điều khiển trình tự
Các khung dữ liệu mức cao được gán một số thứ tự khi chúng qua lớp MAC để truyền đi. Trường phụ số thứ tự (sequence number) hoạt động như một bộ đếm (chia 4096) của các khung dữ liệu được truyền. Bắt đầu từ 0 và tăng lên 1 mỗi khi một gói lớp cao được xử lý bởi lớp MAC. Nếu các gói lớp cao bị phân mảnh, tất cả các phân mảnh có cùng số thứ tự. Khi các khung dữ liệu được truyền lại số thứ tự vẫn không thay đổi.Sự khác nhau giữa các phân mảnh là số phân mảnh. Phân mảnh đầu tiên được gán số phân mảnh là 0. Mỗi phân mảnh kế tiếp tăng số phân mảnh lên 1. Các phân mảnh được truyền lại vẫn giữ lại số thứ tự ban đầu để thực hiện tái hợp các phân mảnh.
Các trạm thực hiện các yêu cầu chất lượng dịch vụ sử dụng phiên dịch khác nhau trong trường điều khiển thứ tự vì nhiều hàng đợi truyền cần được duy trì.
Comment